Thị trường Việt Nam sẽ kết thúc phiên giao dịch cuối tuần với các tin tức đáng chú ý: TTCK Việt Nam dù đã trải qua giai đoạn hồi phục tích cực, nhưng trong 6 tháng cuối năm sẽ vẫn có những yếu tố cần lưu ý? Lượng ô tô nhập khẩu tăng trở lại trong tháng 6 và giá vàng tăng mạnh lên đỉnh cao mới… Dưới đây là nội dung chính 3 tin tức mới trong phiên giao dịch hôm nay thứ Sáu ngày 14/7.
1. TTCK Việt Nam trong nửa cuối năm và những điều cần lưu ý?
TTCK Việt Nam dù đã trải qua giai đoạn hồi phục tích cực, nhưng trong 6 tháng cuối năm sẽ vẫn có những yếu tố rủi ro và các nhà đầu tư phải thận trọng về khả năng đảo chiều xu hướng. Theo đó, trong nửa đầu năm 2023, VN Index sau đà hồi phục từ đáy ngắn hạn 870 điểm lên vùng mốc 1.150 điểm và xu hướng thị trường được chia làm hai góc độ tích cực và tiêu cực. Khi so sánh vùng đỉnh ngắn hạn hiện tại với vùng đỉnh cuối năm 2022 sẽ thấy chỉ số vẫn đang thấp hơn đáng kể, điều này hàm ý rằng, chúng ta vẫn chưa thoát được xu hướng giảm điểm trong trung hạn.
Tuy nhiên, chiều ngược lại trong ngắn hạn, VN-Index hiện vẫn đang nằm trong xu hướng hồi phục và còn dư địa mở rộng thêm, với hai vùng mục tiêu kỳ vọng kế tiếp đáng chú ý.
- Mục tiêu gần là quanh mốc 1.190 điểm, cũng là một đà tăng vừa phải cho nhà đầu tư.
- Mục tiêu thứ hai mang tính kỳ vọng lạc quan hơn, là VN-Index có thể đạt đến vùng kháng cự kế tiếp xung quanh mốc 1.225 điểm cộng trừ 20. Đây là vùng có tính kháng cự trong trung hạn, nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro đảo chiều cao hơn cho chỉ số.
Nhìn từ góc độ phân tích cơ bản, giới phân tích và nhà đầu tư dựa vào hai chỉ báo:
- Tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết thể hiện qua chỉ số EPS của các doanh nghiệp đại diện cho mỗi ngành. Trong đó, các nhóm ngành tăng trưởng mạnh như năng lượng, công nghiệp, hay các nhóm ngành đã có sự suy yếu như tiện ích, nguyên vật liệu… Tuy nhiên, bức tranh chung thì mức tăng trưởng EPS của cả thị trường trong năm 2023 so với năm 2022 gần như đi ngang, chỉ tăng trưởng khoảng 0,5%. Mức tăng này rất thấp nhưng trên thực tế lại phù hợp với bối cảnh vĩ mô hiện tại, vì tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm chỉ tăng 3,7%.
- Động lực thúc đẩy của thị trường tăng – giảm trong hiện tại phụ thuộc vào chỉ số P/E. Có thể thấy một mối tương quan khá rõ nét giữa P/E của VN-Index so với mặt bằng lãi suất, nhìn lại giai đoạn từ năm 2008 – 2012, nếu lãi suất tăng thì P/E của VN-Index giảm và ngược lại.
Từ năm 2020 trở lại đây, câu chuyện lãi suất đã quay trở lại, đặc biệt là năm 2023, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay có xu hướng giảm rõ nét nhờ ảnh hưởng bởi chính sách hỗ trợ của Chính phủ và đây cũng là động lực quan trọng giúp thị trường hồi phục trong 6 tháng đầu năm.
Xu hướng lãi suất giảm
Đánh giá về xu hướng lãi suất từ nay đến cuối năm, có một số yếu tố như hành động của cơ quan điều hành là NHNN trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thấp. Dù đã có 4 lần hạ lãi suất điều hành, nhưng nếu điều kiện khách quan cho phép, thì có thể NHNN sẽ vẫn tiếp tục hạ lãi suất thêm một lần nữa trong quý 3 này.
Điều kiện khách quan ở đây liên quan đến diễn biến của lạm phát. Hiện lạm phát của Việt Nam đã giảm tương đối nhanh và lạm phát so với cùng kỳ năm chỉ còn khoảng 2%, trong khi đó mục tiêu lạm phát bình quân là 4,5%. Khả năng cao, lạm phát của chúng ta sẽ thấp hơn mức mục tiêu đề ra, do đó nó không còn yếu tố đáng lo ngại.
Bên cạnh đó, yếu tố khác có thể kìm hãm chính sách hạ lãi suất của NHNN phần nhiều sẽ đến từ áp lực tỷ giá. Trong hơn một tháng trở lại đây, tỷ giá đã có diễn biến tăng nhất định, tính từ đầu năm đến nay tỷ giá cũng tăng đâu đó khoảng trên dưới 1%.
Nguyên nhân chính là do sự trái chiều trong chính sách giữa NHNN với Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), khiến lãi suất đồng USD cao hơn, kích thích hoạt động nắm giữ đồng USD. Cùng với đó, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc bị mất giá tương đối mạnh từ đầu năm. Và trong tháng 6 vừa qua, không có những luồng ngoại tệ lớn đổ vào hệ thống, mà ngược lại có một lượng ngoại tệ nhất định chảy ra, liên quan đến nghiệp vụ mua điện từ nước ngoài của EVN do chúng ta bị thiếu điện.
Có thể nói, khi lạm phát ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế thấp thì NHNN có thể cân nhắc tỷ giá mất giá ở một mức nào đó. Nếu tỷ giá mất giá khoảng 3% thì chúng ta mới thực sự quan ngại là liệu NHNN có biện pháp để ổn định tỷ giá hay không, còn trong vùng biến động từ 1-2% thì sẽ chưa có động thái gì để bảo vệ đồng nội tệ.
Dựa vào các yếu tố kể trên, xu hướng lãi suất giảm sẽ còn tiếp diễn trong thời gian tới mặc dù không quá nhanh. Động lực quan trọng để hỗ trợ TTCK tăng từ nay đến cuối năm sẽ dựa vào những mô hình dự báo tương quan biến động lãi suất và P/E của VN-Index, kết hợp với tăng trưởng EPS.
Tuy nhiên, mô hình này cũng chưa đưa vào một số rủi ro như trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) hay khủng hoảng tài chính toàn cầu ở mức trầm trọng. Nếu không có những sự kiện bất thường đó, thì xu hướng thị trường sẽ tương đối được hỗ trợ tốt bởi xu hướng hạ lãi suất.
Ngoài ra, có hai yếu tố rủi ro chưa dự trù hết vào mức dự báo của giai đoạn cuối năm cụ thể như:
- Áp lực TPDN sẽ đáo hạn tương đối lớn trong 6 tháng cuối năm. Áp lực đáo hạn tập trung nhiều vào giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 9 và tháng 12/2023 mà trong quý 3 này gần như trọn vẹn thời kỳ cao điểm. Riêng trong quý 2, theo con số thống kê có hơn 40.000 tỷ đồng đã được các doanh nghiệp bất động sản xin đảo nợ và lùi thời hạn thanh toán.
- Rủi ro suy thoái của kinh tế thế giới nói chung và đặc biệt là nền kinh tế Mỹ nói riêng, bởi vì kinh tế Mỹ vẫn là đầu tàu của thế, giới tác động trực tiếp đến các dòng vốn đầu tư không chỉ gián tiếp qua TTCK, mà cả các dòng vốn trực tiếp FDI vào Việt Nam. Trong đó, mối quan hệ qua lại giữa chỉ số lạm phát – lãi suất Mỹ thể hiện qua Fed Funds Rate, tỷ lệ thất nghiệp và chỉ số S&P 500.
Đến thời điểm khi có một vài doanh nghiệp lớn gặp khó khăn, xảy ra đổ vỡ sẽ tác động và tạo ra hiệu ứng tâm lý, đẩy nền kinh tế rơi vào suy thoái, thì thị trường sẽ giảm sâu. Khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên thì thị trường sẽ có một nhịp sụt giảm mạnh. Đây là diễn biến nhà đầu tư cần theo dõi thận trọng và giai đoạn 6 tháng cuối năm, thị trường vẫn có nguy cơ xảy ra những điểm đảo chiều.
2. Lượng ô tô nhập khẩu tăng trở lại trong tháng 6
Theo thống kê sơ bộ vừa được Tổng cục Hải quan lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu có chiều hướng tăng trở lại. Theo đó, tháng 6 cả nước nhập khẩu 9.006 ô tô, tổng kim ngạch đạt gần 250 triệu USD, tăng 18,4% về lượng và tăng 30,7% về kim ngạch so với tháng 5/2023.
Trong tháng 6, Indonesia dẫn đầu thị phần về lượng với 3.965 xe, kim ngạch 55,4 triệu USD, chiếm 44% về lượng và 22,16% kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Thái Lan là thị trường có lượng nhập khẩu nhiều thứ hai với 2.351 xe, nhưng dẫn đầu về kim ngạch với 63,75 triệu USD. Thị trường Trung Quốc đứng thứ ba với 1.340 xe, kim ngạch 53,25 triệu USD.
Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước nhập khẩu 70.915 ô tô nguyên chiếc, tổng kim ngạch 1,65 tỷ USD, tăng 11,4% về lượng và tăng 5,2% về kim ngạch so với cùng kỳ 2022.
Thái Lan, Indonesia và Trung Quốc cũng là 3 cái tên dẫn đầu về lượng xe nhập khẩu với kết quả lần lượt là: 32.373 xe, 25.979 xe và 5.849 xe.
Với 64.201 xe, riêng 3 thị trường kể trên ở châu Á chiếm đến 90,5% tổng lượng ô tô nhập khẩu của cả nước trong 6 tháng đầu năm.
3. Giá vàng tăng mạnh lên đỉnh cao mới
Giá vàng thế giới tiếp tục tăng mạnh lên mức cao nhất gần 1 tháng do USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm bởi kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể sớm kết thúc chu kỳ thắt chặt tiền tệ.
Với xu hướng này, giá vàng trong nước – đang tăng vọt – có thể sẽ tiếp tục tăng mạnh, trong khi tỷ giá đồng Việt Nam so với USD sẽ có cơ hội giảm tiếp.
Giá vàng tăng 0,1% trong phiên 13/7, với vàng giao ngay kết thúc ở mức 1.958,79 USD/ounce trong khi vàng kỳ hạn tháng 8 chốt ở 1.963,80 USD, sau khi có lúc giá vọt lên mức cao nhất kể từ 16/6 là 1.968 USD. Trong suốt phiên này, giá luôn giữ ở mức trên 1.950 USD.
Dữ liệu hôm thứ Năm cho thấy giá sản xuất của Mỹ hầu như không tăng trong tháng 6, cung cấp thêm bằng chứng cho thấy nền kinh tế Mỹ đã bước vào giai đoạn giảm phát. Trước đó một ngày, dữ liệu khác cho thấy giá tiêu dùng tháng 6 tăng ít nhất trong vòng hơn 2 năm. Với những cơ sở đó, Fed không có lý do gì để tiếp tục tăng lãi suất lâu dài và mạnh mẽ.
Chỉ số đồng USD giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 1 năm khiến giá vàng trở nên hợp lý hơn đối với những khách hàng ở nước ngoài, trong khi lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ giảm càng khiến cho vàng trở nên hấp dẫn hơn.